Chỉ câu trả lời của kiểu sinh viên y khoa thực hành mới thể khiến các tiền bối cảm thấy nguy hiểm của làn sóng . Đôi khi, việc hậu bối vượt mặt chỉ là vấn đề thời gian.
Bác sĩ Trình Dục Thần nghiêm mặt hỏi cô: “Em từng làm dẫn lưu màng phổi kín ?”
Dẫn lưu màng phổi kín là một thủ thuật cấp hai, bác sĩ trực thể thực hiện phẫu thuật nhỏ , khó cũng khó, dễ cũng dễ. Trên lâm sàng, thủ thuật thường hai cách thực hiện.
Một phương pháp thuộc về cách làm truyền thống, cần gây tê tại chỗ, dùng d.a.o mổ rạch da và cơ giữa các xương sườn. Cuối cùng, dùng kẹp cong tạo một lỗ l*иg n.g.ự.c của bệnh nhân luồn ống dẫn lưu , khâu cố định.
Một phương pháp khác là dùng trocar xuyên qua da để luồn ống dẫn lưu mà cần phẫu thuật.
Năm ngoái, trong thời gian thực tập, cô từng cơ hội thực hiện thủ thuật chọc màng phổi cấp cứu để giảm áp lực cho bệnh nhân tràn khí màng phổi khi tham gia cấp cứu tai nạn giao thông. Đến khoa Nội Hô Hấp, cô cũng hỗ trợ thầy Tân thực hiện chọc dịch màng phổi. Trên thực tế, việc cô thực hiện chọc nối với bình dẫn lưu gần giống với phương pháp thứ hai của dẫn lưu màng phổi kín đề cập.
Ngoài , Tạ Uyển Oánh thực hiện nhiều thủ thuật chọc dò lâm sàng khác, bao gồm chọc tĩnh mạch xương đòn, v.v.
Các loại thủ thuật chọc dò lâm sàng, trọng tâm là nắm vững giải phẫu thao tác chính xác, ghi nhớ trình tự thao tác, hề phức tạp như phẫu thuật. Tuy nhiên, việc thủ thuật chọc dò phân loại là phẫu thuật cấp hai, là phẫu thuật đơn giản nhất, cho thấy đầy đủ sự tồn tại của nguy cơ. Nếu chọc sai sẽ gây các biến chứng nghiêm trọng như chảy m.á.u nhiều.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại otruyen.vn - https://otruyen.vn/tro-ve-90-co-tro-thanh-bac-si-ngoai-khoa-thien-tai/chuong-2306.html.]
Bác sĩ Trình Dục Thần hỏi cô từng làm , giọng điệu phần nghi ngờ. Rõ ràng là cho rằng cô, một sinh viên y khoa thể từng làm thủ thuật , lẽ chỉ là lý thuyết suông.
Em hai phương pháp chọc, em bệnh nhân phù hợp với phương pháp chọc nào ?
Giống như phương pháp đầu tiên đây gọi là tạo lỗ l*иg ngực, là tạo một lỗ, giống với tình trạng đặt ống dẫn lưu cuối cùng trong phẫu thuật mở ngực, ống khá to. Ưu điểm của ống dẫn lưu to là dễ tắc nghẽn, phù hợp với những bệnh nhân tình trạng phức tạp và nghiêm trọng hơn như tràn mủ màng phổi, tràn m.á.u khí màng phổi.
Nhược điểm cũng rõ ràng, việc tạo một lỗ l*иg n.g.ự.c của bệnh nhân, vết mổ dài đến hai ba cm, bệnh nhân sẽ đau. Điều sẽ gây tổn thương phẫu thuật khá lớn cho bệnh nhân, bệnh nhân sẽ thích.
Đối với phương pháp thứ hai, kim chọc thường dùng lâm sàng là kim dẫn lưu tĩnh mạch trung tâm, kim nhỏ, ống dẫn lưu đưa nhỏ và mềm hơn, mang cảm giác thoải mái hơn cho bệnh nhân. So với ống to, ống nhỏ mềm dễ tắc nghẽn bởi dịch dẫn lưu, phù hợp lắm với những bệnh nhân dịch dẫn lưu phức tạp.
Ngoài , chọc đơn thuần và đặt ống dẫn lưu là khác , nếu sẽ là chọc hoặc đặt ống dẫn lưu.
Áp dụng ca bệnh lâm sàng cụ thể, một cách đơn giản hơn nghĩ, Đặt ống dẫn lưu là do chọc đơn thuần thể làm cho phổi nở . Giống như bé mà cô cấp cứu , đó cần đặt ống dẫn lưu, nếu đặt ống dẫn lưu vì vết thương hở tự nhiên vẫn tồn tại, sẽ nhanh chóng tràn khí màng phổi trở dẫn đến khó thở.
Bệnh nhân ở khoa Nội Hô Hấp thì , vì tràn dịch màng phổi khu trú. Mục đích lâm sàng của việc hút dịch màng phổi là để xác định chẩn đoán nhiễm trùng, mức độ khó thở cần đặt ống dẫn lưu lâu dài, quan trọng hơn là điều trị nguyên nhân gây nhiễm trùng.
Có thể thấy, việc điều trị lâm sàng tinh tế, hề giống như những ngoài ngành nghĩ phẫu thuật nào cũng giống .